Banner
Trang chủ BỘ MÔN Bộ môn Khoa học xã hội

TS. DƯƠNG THỊ KIM HUỆ - CHỦ TRƯƠNG VẬN ĐỘNG LỰC LƯỢNG THỨ BA CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC.

07/09/2025 19:20 - Xem: 11
Sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, nhất là từ năm 1969 đến năm 1975 đã đặt ra yêu cầu cần phải huy động và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp đông đảo nhất các lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra sức mạnh to lớn, tấn công kẻ thù từ mọi phía, góp phần cho thắng lợi của cuộc kháng chiến. Xuất phát từ chủ trương thực hiện đại đoàn kết dân tộc, nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của lực lượng thứ ba, Đảng Lao động Việt Nam (LĐVN) đã lãnh đạo vận động lực lượng quan trọng và có ảnh hưởng xã hội lớn này tham gia vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hoà bình, hòa hợp dân tộc và tiến bộ xã hội.

CHỦ TRƯƠNG VẬN ĐỘNG LỰC LƯỢNG THỨ BA CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC.

TSDƯƠNG THỊ KIM HUỆ

 

 

TÓM TẮT: Sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, nhất là từ năm 1969 đến năm 1975 đã đặt ra yêu cầu cần phải huy động và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp đông đảo nhất các lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra sức mạnh to lớn, tấn công kẻ thù từ mọi phía, góp phần cho thắng lợi của cuộc kháng chiến. Xuất phát từ chủ trương thực hiện đại đoàn kết dân tộc, nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của lực lượng thứ ba, Đảng Lao động Việt Nam (LĐVN) đã lãnh đạo vận động lực lượng quan trọng và có ảnh hưởng xã hội lớn này tham gia vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hoà bình, hòa hợp dân tộc và tiến bộ xã hội. Trên cơ sở nắm bắt kịp thời thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các lực lượng yêu nước và khai thác những điểm tương đồng giữa lực lượng cách mạng và lực lượng thứ ba, Đảng LĐVN đã đề ra chủ trương đúng đắn, sáng tạo, sử dụng nhiều cách thức, hình thức vận động lực lượng thứ baphục vụ hiệu quả cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

TỪ KHOÁ: vận động, lực lượng thứ ba, Đảng Lao động Việt Nam

1. NỘI DUNG
1.1. Khái quát về lực lượng thứ Ba trước năm 1969

Về bản chất, lực lượng theo khuynh hướng trung lập ở miền Nam Việt Nam chính là những nhóm, những tổ chức chính trị và cá nhân tiến bộ yêu nước, có tinh thần dân tộc thuộc nhiều thành phần, giới, giáo, nghề nghiệp khác nhau, trong đó có ảnh hưởng rộng nhất là các nhà trí thức, tư sản dân tộc và một số nhân vật có uy tín trong chính quyền Sài Gòn.

Trước năm 1969, lực lượng thứ ba đã có những chuyển biến trong nhận thức về “thời cuộc”, từng bước nhận thức rõ bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai VNCH. Do đó, họ đã tổ chức và tham gia vào các phong trào đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên lập trường chung là độc lập, hòa bình, dân chủ và hòa hợp dân tộc. Các phong trào đấu tranh của lực lượng thứ ba rất phong phú, sôi nổi, tập trung chủ yếu ở các đô thị miền Nam mà tiêu biểu nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Một số phong trào tiêu biểu của lực lượng thứ ba trước năm 1969 như: phong trào đấu tranh của nhóm Nguyễn Mạnh Hà (người Công giáo, từng có thời gian làm Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời năm 1946 của Hồ Chí Minh, phong trào đấu tranh của khối Phật giáo Ấn Quang... Sự chuyển biến trong nhận thức của lực lượng thứ ba trước năm 1969 là cơ sở quan trọng để Đảng LĐVN và Trung ương Cục miền Nam xác định những “điểm tương đồng” cho việc tranh thủ, vận động lực lượng này đấu tranh theo quỹ đạo cuộc kháng chiếnchống Mỹ, cứu nước.

1.2. Chủ trương vận động lực lượng thứ Ba của Đảng
1.2.1. Giai đoạn 1969 – 1973

Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết ngày 21 - 7 - 1954, trong xã hội miền Nam hình thành ba khuynh hướng: “Cộng sản”, trung gian “không quốc gia, không cộng sản” và chống “Cộng sản”. Trong đó, những người theo khuynh hướng trung gian “không quốc gia, không cộng sản” (về sau gọi là lực lượng thứ ba), tức là “các lực lượng tiến bộ trong giới trí thức và trong các tổ chức tôn giáo, các nhóm chính trị có tinh thần dân tộc, dân chủ, các nhóm cải cách, các nhóm thân Pháp, thân Mỹ, muốn chấm dứt chiến tranh, muốn có chủ quyền quốc gia và chống lại chính quyền tay sai hiện nay của đế quốc Mỹ”.

Xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và tư tưởng “đại đoàn kết dân tộc”, Đảng LĐVN coi trọng và phát huy sức mạnh nội lực. Trên cơ sở nhận thức được khuynh hướng đấu tranh của lực lượng thứ ba, Đảng LĐVN đã bám sát phong trào đấu tranh của lực lượng này với khẩu hiệu xuyên suốt từ năm 1968 là hòa bình, trung lập, thống nhất đất nước và hòa hợp dân tộc. Từ đó, Đảng LĐVN đã có những chủ trương và chỉ đạo phù hợp với tình hình đấu tranh của lực lượng thứ ba, hướng cuộc đấu tranh của lực lượng thứ ba sang quỹ đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đặc biệt, Bức điện của Lê DuẩnVề những công tác cấp bách ở miền Nam” gửi Thường vụ Trung ương Cục, Thường vụ Khu uỷ Khu V, Thường vụ Khu uỷ Trị - Thiên (28 - 9 - 1972) đã chỉ đạo rõ: “Phải kịp thời tập hợp lực lượng thứ ba gồm các phe, nhóm tán thành hòa bình, dân tộc, dân chủ, hòa hợp dân tộc, làm thành lực lượng đồng minh trực tiếp của ta để phân hóa hơn nữa các thế lực phản động, cô lập và chĩa mũi nhọn vào Thiệu và các phần tử thân Mỹ cực đoan, hiếu chiến nhất”.

Quán triệt chủ trương của Đảng về vận động lực lượng thứ ba vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Trung ương Cục miền Nam đã lựa chọn những cán bộ cách mạng có bản lĩnh chính trị vững vàng, cái cắm vào những “nhóm”, “tổ chức”, cơ quan của lực lượng thứ ba, hoạt động công khai hợp pháp trong chế độ VNCH.

Từ năm 1969 đến năm 1973, thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam, các cán bộ cách mạng hoạt động “ngầm” đã tích cực vận động lực lượng thứ ba tham gia vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và đã được những kết quả to lớn. Một là, lực lượng thứ ba đã hoạt động tích cực tạo thành một phong trào đấu tranh vì hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc ở khắp các đô thị miền Nam, chuyển sang quỹ đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đưa phong trào đấu tranh đô thị ở miền Nam tiến lên một bước phát triển mới. Hai là,cán bộ cách mạng đã vận động lực lượng thứ ba đóng góp tích cực buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bị lung lay, phải chấp nhận ngồi vào bàn đám phán bốn bên, để đi đến ký kết kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày 27 - 1 - 1973. Ba là,trên cơ sở của Hiệp định Paris về Việt Nam 1973, lực lượng thứ ba được quốc tế thừa nhận là một trong ba lực lượng chính trị ở miền Nam Việt Nam, chuẩn bị tiền đề quan trọng cho việc đẩy mạnh vận động và tranh thủ lực lượng thứ ba trong giai đoạn sau - giai đoạn “đánh cho Ngụy nhào”.

1.2.2. Giai đoạn 1973 -1975

Sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, thế và lực của cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh hơn bao giờ hết. Bên cạnh mặt trận quân sự, ngoại giao, mặt trận chính trị cũng phát huy vai trò vô cùng quan trọng trong chiến thắng chung của cả dân tộc. Hòa chung trong phong trào đấu tranh chính trị miền Nam, lực lượng thứ ba đã được công nhận là một trong ba lực lượng chính trị ở miền Nam và là một thành phần trọng yếu của Chính phủ liên hiệp ba thành phần sẽ được thành lập theo những điều khoản trong Hiệp định Paris. Nhiều “Phong trào”, “Mặt trận”, “Lực lượng”, “Nhóm” ra đời với khuynh hướng chính trị trung lập, đòi hòa bình, độc lập, dân chủ, hòa hợp và hòa giải dân tộc... nhưng tất cả đều chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Quán triệt quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, khảo sát kết quả thực hiện và bám sát vào tình hình thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng LĐVN đã chủ trương đẩy mạnh vận động và tranh thủ lực lượng thứ ba. Đảng nhấn mạnh: “đẩy mạnh việc tập hợp và hoạt động của lực lượng thứ ba” với khẩu hiệu “đòi hòa bình dân chủ, đòi cơm no áo ấm, đòi lật Thiệu, lập chính quyền tán thành hòa bình, hòa hợp dân tộc” [100, tr. 1066]. Đảng đã xây dựng được những Nghị quyết về vận động sát hợp, hiệu quả. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện, Đảng luôn  soát các Nghị quyết đã ban hành, đánh giá kết quả đạt được, bổ sung, điều chỉnh kịp thời những khó khăn, vướng mắc và những phát sinh trong thực tiễn. Nhờ đó, Trung ương Cục miền Nam đã chỉ đạo thực hiện những chủ trương đúng đắn, phù hợp của Đảng cho các cán bộ cách mạng hoạt động “ngầm” nhằm tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động và tranh thủ lực lượng thứ ba vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Do vậy, chủ trương và chỉ đạo vận động lực lượng thứ ba của Đảng những năm 1973 - 1975 có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời, luôn đảm bảo tính thực tiễn, kế thừa và phát triển.

Từ những cơ sở nói trên, Đảng LĐVN đã chỉ đạo vận động lực lượng thứ ba và đạt được kết quả quan trọng. Qua phong trào đấu tranh của lực lượng thứ ba, dư luận trong nước và thế giới thêm hiểu hơn về chính sách tiếp tục chiến tranh của Mỹ và VNCH, từ đó càng làm cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bị cô lập trên trường quốc tếgóp phần quan trọng vào thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh. Sự sáng tạo và linh hoạt của các cán bộ cách mạng trong Ban Tình báo, Ban Trí vận và Ban Địch vận đã gợi ý và giúp đỡ lực lượng thứ ba vận động, ủng hộ đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền tổng thống chính quyền Sài Gòn vào ngày cuối cùng, cũng như vấn đề bàn giao chính quyền cho CPCMLTCHMNVN. 

1.3. Đa dạng, linh hoạt biện pháp vận kinh nghiệm của Đảng trong tập hợp lực lượng thứ Ba

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã chú trọng xây dựng và sử dụng các biện pháp, giải pháp linh hoạt và đa dạng vận động lực lượng thứ ba. Quá trình vận động lực lượng thứ ba có thể rút ra những kết quả sau:

Một là, Đảng, Trung ương Cục và các cán bộ cách mạng thực hiện nhiệm vụ đã linh hoạt và đa dạng trong việc tranh thủ những điều kiện thuận lợi, bắt mạch đúng những sự chuyển động về chính trị trong mỗi từng lớp, mỗi ngành, mỗi giới mà đưa các khẩu hiệu hòa bình, độc lập, dân chủ, hòa hợp dân tộc, cải thiện đời sống đúng lúc, đúng đối tượng, để phát động quần chúng, vận động và tập hợp lực lượng thứ ba, mở rộng mặt trận chống Mỹ.

Hai là, những hoạt động linh hoạt và đa dạng trong việc vận động của Đảng đều xuất phát điểm từ những quyền lợi bức thiết nhất của mỗi tầng lớp nhân dân, mỗi ngành, mỗi giới, hoặc của đông đảo quần chúng ở cơ sở, nhất là từ các yêu cầu bức bách về đời sống, về cơm áo, về dân sinh, dân chủ, mà phát động và lãnh đạo các phong trào đấu tranh của quần chúng, như các phong trào chống tăng thuế, chống phạt vạ, chống bóp nghẹt báo chí, chống khủng bố v.v.; do đó, tranh thủ và liên kết dần các phong trào của lực lượng thứ ba vào những phong trào có mục tiêu chính trị chung. 

Ba là, khi tình hình có chuyển biến mới, Đảng đã tranh thủ lực lượng thứ ba, phát động một phong trào quần chúng thật mạnh mẽ, rộng lớn; tổ chức được những cuộc xuống đường biểu tình rầm rộ, những hình thức mít tinh, hội họp của đông đảo quần chúng, hoặc triển khai kịp thời các hoạt động xã hội như cứu tế nạn nhân chiến tranh, cứu tế trẻ mồ côi… thông qua những hình thức đó mà tập hợp quần chúng rộng rãi, để lấy đà mở phong trào công khai rộng lớn mà tiến lên.

2. KẾT LUẬN

Thực tế lịch sử đã chứng minh, việc sử dụng biện pháp, giải pháp vận động và tranh thủ lực lượng thứ ba linh hoạt, sáng tạo và đa dạng trong những điều kiện lịch sử cụ thể của Đảng và Trung ương Cục đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đặc biệt, sự linh hoạt và đa dạng trong giải pháp, biện pháp vận động lực lượng thứ ba đã hỗ trợ quan trọng cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 để kết thúc thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi này là tổng hòa của nhân tố, trong đó có việc Đảng và Trung ương Cục đã sử dụng linh hoạt và đa dạng các biện pháp, giải pháp vận động lực lượng thứ ba để huy động toàn dân tộc vào sự nghiệp cách mạng chung. Bài học kinh nghiệm này không những có giá trị cho những giai đoạn tiếp theo và còn nguyên giá trị đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh - Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975: Thắng lợi và bài học kinh nghiệm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh - Bộ Chính trị (2015), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Bản kiến nghị đòi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 31 - 10 - 1974 (1974), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Phông Đệ II CH, hồ sơ số 6.723.
4. Bản nghiên cứu đặc biệt về tình hình chính trị tại Thủ đô của Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia (1970), Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Phông Đệ II CH, hồ sơ 1.322.
5. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước - Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (2012),  Hiệp định Paris về Việt Nam 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, tập 1 - Đánh và đàm, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước - Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (2012),  Hiệp định Paris về Việt Nam 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, tập 2 - Ký kết và thực thi, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước - Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (2016), Tổ chức, hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam qua tài liệu, tư liệu lưu trữ (1960 - 1975),NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Lê Cung (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong Kháng chiến chống Mỹ 1954 - 1975, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương (2002), Công văn số 93 - CV/TW “Về việc tổng kết công tác Binh - địch vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Tài liệu của Văn phòng Lưu trữ Trung ương Đảng, tr. 1 - 17.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

 

BÀI VIẾT LIÊN QUAN